Thứ Hai, 30 tháng 1, 2012
Theo dõi, xét nghiệm, chẩn đoán đái tháo đường

Theo dõi, xét nghiệm, chẩn đoán đái tháo đường

- Glucose máu: Theo dõi, chẩn đoán và giám sát chứng tăng đường huyết, hạ đường huyết. Đặc biệt chỉ số này rất quan trọng trong theo dõi tiểu đường và tiền tiểu đường.

- C-peptide: để theo dõi việc sản xuất insulin bởi các tiểu thể beta trong tuyến tụy và để giúp xác định nguyên nhân gây hạ đường huyết.

- Insulin: để giúp đánh giá quá trình sản xuất insulin, chẩn đoán hội chứng insulinoma, và để giúp xác định nguyên nhân gây hạ đường huyết

- HbA1c: Test HbA1c có khả năng đánh giá nồng độ trung bình của glucose trong máu trong 2-3 tháng trước khi làm xét nghiệm. Xét nghiệm HbA1c được sử dụng chủ yếu để giám sát việc kiểm soát glucose của bệnh nhân tiểu đường theo thời gian và giúp bác sĩ đánh giá hiệu quả phác đồ điều trị bệnh tiểu đường của bệnh nhân đang thành công hay cần phải được điều chỉnh.

- Tổng phân tích nước tiểu
Tìm hiểu phương pháp châm cứu chữa đau lưng

Tìm hiểu phương pháp châm cứu chữa đau lưng

Có 2 loại đau lưng là đau lưng cấp tính và đau lưng mãn tính. Nguyên nhân đau lưng cấp tính có thể do các trấn thương tai nạn, gãy xương sống, dây chằng cột sống bị viêm, chèn ép vào dây thần kinh, hoặc do làm việc sai tư thế. Còn đau lưng mãn tính có thể do mắc các bệnh thoái hóa cột sống, thoát vị đĩa đệm, do thống kinh..




Nếu đau lưng, hãy nghĩ tới những cây kim. Bởi các chuyên gia phát hiện ra rằng liệu pháp đông y này điều trị đau lưng tốt hơn bất cứ phương pháp nào. Vì theo Đông y, khi các mao mạch, mạch máu bị tắc nghẽn không thông, dẫn đến đau nhức, khi châm cứu vào các huyệt đạo, thì chính các cây kim có tác dụng đả thông những chỗ tắc nghẽn này nên giảm đau rất tốt.

Phải đến 85% chúng ta đã từng có cảm giác đau nhói một vài lần nào đó. Chỉ riêng tại Anh, đau lưng tiêu tốn khoảng 500 triệu bảng (tương đương với khoảng 750 triệu đô la Mỹ) mỗi năm.

Một nghiên cứu cho thấy châm cứu là dùng các cây kim đặc biệt xuyên vào các huyệt đạo trên cơ thể, giúp giảm đau hiệu quả hơn hẳn các các điều trị khác.

Hàng trăm người bị đau thắt lưng mãn đã tham gia vào nghiên cứu. Họ được chia thành 4 nhóm. Nhóm thứ nhất chỉ châm cứu 1 lần, nhóm thứ 2 điều chị theo liệu trình, nhóm thứ 3 là châm cứu bằng kim điện cực và nhóm cuối cùng dùng các phương pháp tây y.

Sau 8 tuần, tình trạng đau lưng của 60% những người được châm cứu có sự cải thiện. Trong khi phương pháp thông thường là 39%. Sau 1 năm, 59 – 69% người được điều trị bằng châm cứu báo cáo kết quả cải thiện đáng kể, so với 50% ở những người dùng phương pháp thông thường.

Nhà nghiên cứu, TS Daniel Cherkin cho biết: Tất cả các hình thức châm cứu đều có hiệu quả và tác động lâu dài đối với chứng đau lưng mãn” khi so với phương pháp thông thường.

Với nghiên cứu này, châm cứu hứa hẹn sẽ trở thành một lựa chọn quan trọng trong điều trị đau lưng mãn. Bởi châm cứu không chỉ an toàn, ít tác dụng phụ mà còn có tác dụng lâu dài.

Trước đây, các nhà khoa học thuộc Đại học York (Anh) cũng đã cho thấy châm cứu có thể giúp giảm chứng đau lưng cho các bệnh nhân trong thời gian dài. Những người châm cứu 10 lần trong 3 tháng đã giảm các cơn đau lưng trong suốt 2 năm sau đó và dùng ít thuốc giảm đau hơn so với những ai không được chữa trị bằng phương pháp này.

Các bệnh về lưng có thể được điều trị bằng thuật châm cứu:

Có rất nhiều căn bệnh về lưng có thể được điều trị bằng thuật châm cứu để giảm đau và thúc đẩy quá trình phục hồi.

+ Bong gân lưng có thể bị gây ra bởi căng dây chằng và hoặc căng cơ, tình trạng các cơ bị xé ra. Có rất nhiều nguyên nhân bị bong gân lưng như nâng vật nặng hoặc thực hiện các hoạt động hàng ngày không đúng tư thế. Châm cứu có thể giúp quá trình phục hồi các chấn thương này diễn ra nhanh hơn.

+ Thoát vị đĩa đệm – một căn bệnh gây rất nhiều đau đớn. Đó là khi đĩa đệm giữa 2 đốt sống nhô ra ngoài, chèn vào các dễ dây thần kinh gây đau. Châm cứu có thể là một giải pháp tuyệt vời cho loại đau lưng này.

+ Đau dây thần kinh tọa. Điều này xảy ra khi một cơn đau nhói lên từ mông rồi chạy xuống cẳng chân. Cơn đau này là do áp lực tác động vào dây thần kinh tọa. Căn bệnh gây rất nhiều phiền toái và giảm khả hiệu quả hoạt động và làm việc hàng ngày. Châm cứu là một biện pháp hữu hiệu điều trị liên quan đến đau dây thần kinh tọa, giúp giảm đau, tăng khả năng hoạt động và làm việc.

Nếu như bạn định thử phương pháp châm cứu để điều trị đau dây thần kinh tọa, nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi quyết định. Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng châm cứu không nhất thiết phải tác động lên vùng lưng có vấn đề vì dòng năng lượng có thể được dẫn hoặc kích thích từ phần khác của cơ thể như chân hoặc cổ.
Lưu ý: Phương pháp châm cứu cũng chỉ với mục đích chính là giảm đau, làm cho người bệnh thấy nhẹ nhàng hơn trong các cơn đau lưng, phương pháp này chỉ đi chữa được phần ngọn, phần triệu chứng của bệnh mà không chữa dứt điểm được. Tốt hơn hết bệnh nhân nên kết hợp phương pháp này với điều trị bằng thuốc Đông y, khi đó bệnh này mới điều trị dứt điểm được.
Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2012
Nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm cột sống

Nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm cột sống

Thoát vị đĩa đệm gây nên những cơn đau khó chịu, gây tê mỏi lưng, chạy dọc xuống hai chân, bệnh này thường xuyên tái phát, làm giảm khả năng vận động, ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống. Nếu không điều trị bệnh có thể gây biến chứng nặng nề như teo cơ, tàn phế, tiểu tiện không kiểm soát… Vậy nguyên nhân và cách phòng tránh căn bệnh này như thế nào?

Nguyên nhân gây bệnh

Có nhiều nguyên nhân gây nên thoát vị đĩa đệm cột sống, trong đó chủ yếu là do chấn thương cột sống như tai nạn giao thông, tai nạn lao động; tư thế làm việc không đúng cách, thường xuyên phải mang vác nặng gây quá khả ngăng chịu đựng của cột sống …


Ở những người trên 30 tuổi, cột sống bắt đầu thoái hóa đĩa đệm thường không còn mềm mại, nhân nhày có thể bị khô, vòng sụn bên ngoài xơ hóa, rạn nứt và có thể rách khi nếu có một lực tác động mạnh vào cột sống. Hay gặp nhất là việc bê vác vật nặng sai tư thế. Thay vì ngồi xuống bê vật rồi từ từ đứng lên, nhiều người có thói quen đứng rồi cúi xuống, nhấc vật nặng lên. Việc mang vác nặng sai tư thế này dễ gây chấn thương đốt sống lưng, làm đĩa đệm thoát vị ra ngoài.

Nhiều thói quen sinh hoạt hàng ngày cũng ảnh hưởng xấu tới xương khớp như tư thế ngồi làm việc không đúng cách gây cong vẹo cột sống, tập thể dục không đúng cách gây thoái hóa khớp, trật khớp… Ngoài ra, các bệnh lý cột sống bẩm sinh như gai đôi cột sống, gù vẹo, thoái hóa cột sống cũng là các yếu tố thuận lợi gây thoát vị đĩa đệm.

Thoát vị đĩa đệm xảy ra bất kỳ phần nào của cột sống như phần cột sống cổ, cột sống thắt lưng, trong đó chủ yếu thoát vị cột sống thắt lưng. Nếu không được điều trị có thể để lại những hậu quả và những biến chứng nguy hiểm cho người bệnh. Bệnh nhân có thể bị tàn phế suốt đời do bị liệt trong trường hợp đĩa đệm thoát vị chèn ép tủy cổ. Khi bị chèn ép các dây thần kinh vùng thắt lưng cùng, bệnh nhân có thể bị chứng đại tiểu tiện không tự chủ do rối loạn cơ trơn. Ngoài ra bệnh nhân bị teo cơ các chi nhanh chóng, khiến sinh hoạt bị ảnh hưởng nghiêm trọng, thậm chí mất khả năng lao động.

Các biện pháp phòng tránh

- Luôn duy trì chế độ ăn uống, sinh hoạt, làm việc, nghỉ ngơi hợp lý; thường xuyên tập thể dục rèn luyện đề có một cơ thể khỏe mạnh và cột sống vững chắc.

- Giữ gìn tư thế cột sống đúng trong sinh hoạt hằng ngày (ngồi học, ngồi làm việc, mang vác vật nặng đúng cách,..). Trẻ em cần ngồi học đúng tư thế, tránh mang vác nặng, điều đó giúp phòng tránh tật gù vẹo cột sống, là một yếu tố nguy cơ gây thoát vị đĩa đệm. Cần chú ý tránh khiêng vác vật nặng, nhất là bê vật nặng ở tư thế cúi lom khom. Ngồi lâu kéo dài trong tư thế gò bó cũng ảnh hưởng tiêu cực đến cột sống thắt lưng và cũng là yếu tố nguy cơ thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng. Do vậy sau khi ngồi làm việc khoảng 1 giờ cũng nên đứng dậy đi lại, nghỉ ngơi khoảng 10 phút.

- Hạn chế mọi nguy cơ bị chấn thương cho cột sống khi lao động, tham gia giao thông, các vận động, động tác thể thao quá mức và kéo dài ...
Thứ Năm, 26 tháng 1, 2012
5,7% dân số mắc bệnh đái tháo đường

5,7% dân số mắc bệnh đái tháo đường

Theo kết quả điều tra, tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường trong cộng đồng tại Việt Nam cao hơn so với thế giới.
Tỷ lệ người mắc bệnh đái tháo đường ở nước ta hiện chiếm 5,7% dân số. Đây là số liệu điều tra mới nhất mà Bệnh viện Nội tiết Trung ương vừa thực hiện và lần đầu tiên công bố tại Hội nghị tổng kết hoạt động của Dự án phòng chống đái tháo đường quốc gia năm 2012 và triển khai kế hoạch năm 2013 diễn ra sáng 2/4, tại Hà Nội.

Cuộc điều tra được Bệnh viện Nội tiết Trung ương tiến hành năm 2012, tại 6 vùng sinh thái trong cả nước, gồm Miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Kết quả cho thấy, tỷ lệ người mắc bệnh đái tháo đường ở nước ta chiếm 5,7% dân số. Trong đó, Tây Nam Bộ có tỷ lệ cao nhất với 7,2% dân số và thấp nhất là khu vực tây Nguyên với 3,8% dân số. Tỷ lệ nữ giới mắc đái tháo đường nhiều hơn nam giới gần 5%. Người trên 45 tuổi, người có vòng eo lớn và trong gia đình từng có người bị đái tháo đường có nguy cơ mắc bệnh này cao hơn từ 2 đến 5 lần so với người bình thường.

Điều tra cũng chỉ ra một thực trạng đáng quan tâm là tỷ lệ người bệnh đái tháo đường trong cộng đồng không được phát hiện là 63,6%, trong đó Tây Nam Bộ có tỷ lệ cao nhất chiếm 72,1%. Tỷ lệ này trên thế giới là 50%.

Như vậy, kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường trong cộng đồng tại Việt Nam cao hơn hẳn so với thế giới. Tỷ lệ mắc đái tháo đường ở Việt Nam 10 năm qua đã tăng gấp đôi. Đây là con số đáng báo động vì trên thế giới, phải trải qua 15 năm tỷ lệ mắc đái tháo đường mới tăng gấp đôi. Trong khi đó, 75,5% số người được hỏi đều có kiến thức rất thấp bệnh đái tháo đường.

Nguyên nhân của sự gia tăng tỷ lệ đái tháo đường trong thời gian gần đây là chế độ dinh dưỡng mất cân đối và ít hoạt động thể lực dẫn đến một loạt các yếu tố bệnh sinh bắt đầu từ những hội chứng: thừa cân, béo phì, kháng insulin, rối loạn chuyển hóa lipid và tăng huyết áp.

Theo kế hoạch, trong năm nay, Dự án phòng chống bệnh đái đường quốc gia tiếp tục tăng cường hoạt động sàng lọc, phát hiện sớm cho bệnh nhân; tăng cường tư vấn về dinh dưỡng, về luyện tập thể lực cho người có nguy cơ cao và quản lý được 70% số người chớm mắc đái tháo đường.
Thứ Ba, 24 tháng 1, 2012
Các bệnh xương khớp

Các bệnh xương khớp

Khi thời tiết chuyển mùa, nhất là từ mùa nóng sang mùa lạnh, các bệnh lý về khớp ở người cao tuổi thường xuất hiện. Vì khi đó, độ ẩm trong không khí tăng cao, cơ thể sẽ tạo ra phản ứng để thích ứng với thời tiết bằng cách co các mạch máu ngoại vi từ đó làm giảm tưới máu cho các cơ quan ngoại biên trong đó có da, cơ, khớp nên gây ra các biểu hiện như: đau mỏi cơ xương khớp, co cứng cơ vùng vai gáy, thắt lưng.

Trong giai đoạn chuyển mùa này, người già thường bị đau nhức bởi các chứng bệnh sau:

Bệnh thấp khớp cấp

Thấp khớp cấp là bệnh mắc phải khi nhiễm liên cầu khuẩn beta nhóm A vùng hầu họng, nó gây tổn thương vĩnh viễn các van tim đưa đến suy tim. Bệnh có nhiều tên gọi khác như viêm khớp cấp do thấp, sốt thấp, thấp tim.

Bệnh xuất hiện sau khi nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, đặc biệt là viêm họng với những biểu hiện như: đau họng, sốt cao, nếu không điều trị kịp thời và triệt để thì sau đó vài tuần có thể sẽ xuất hiện các dấu hiệu của bệnh thấp khớp cấp như sốt, đau khớp. Lúc đầu thường đau ở các khớp lớn như khớp gối, khớp khuỷu tay, khớp cổ chân, cổ tay, ít gặp viêm các khớp nhỏ ở bàn tay, bàn chân hoặc viêm một khớp đơn độc với các dấu hiệu như: sưng, nóng, đỏ đau, không đối xứng. Đau sẽ di chuyển từ khớp này sang khớp khác, khi chuyển sang khớp mới, khớp cũ hết đau, không để lại di chứng tại khớp, các khớp bị viêm có thể có dịch nhưng không bao giờ bị hóa mủ. Viêm khớp có thể tự khỏi nhưng nếu có dùng thuốc chống viêm thì chúng sẽ khỏi rất nhanh.


Đây là bệnh do vi trùng gây ra, xuất phát từ ổ nhiễm trùng vùng họng do đó biện pháp phòng ngừa thấp khớp cấp hữu hiệu nhất là phải điều trị kịp thời, triệt để khi phát hiện khi bị viêm họng.

Viêm đa khớp dạng thấp

Viêm khớp dạng thấp là một bệnh tự miễn dịch, viêm mạn tính tổ chức liên kết màng hoạt dịch, tổn thương chủ yếu ở khớp ngoại vi, bệnh tiến triển từ từ, dẫn đến teo cơ biến dạng dính và cứng khớp.

Bệnh chủ yếu gặp ở nữ giới, đây là tình trạng viêm khớp kéo dài với các đợt sưng, nóng, đỏ, đau ở nhiều khớp, thường gặp nhất là các khớp nhỏ ở bàn tay, khớp cổ tay, khuỷu, gối, cổ chân, bàn ngón chân, cả 2 bên. Nếu không được điều trị, các khớp nhanh chóng bị biến dạng, dính khớp. Khi bệnh ở vào giai đoạn muộn thường gặp ở các khớp như vai, háng, cột sống cổ với các biểu hiện như vào buổi sáng, sau khi mới ngủ dậy, người bệnh thấy có cảm giác đau và cứng tại các khớp bị viêm, khó vận động. Dấu hiệu này thường gặp ở các khớp cổ tay và bàn tay, khiến người bệnh phải làm các động tác như gấp, xoay cổ tay… trong một thời gian dài các khớp mới có thể hoạt động trở lại bình thường. Sau những đợt sưng đau khớp kéo dài có thể vài tháng đến vài năm, các khớp này sẽ bị biến dạng như bàn tay bị vẹo, cổ tay sưng, các ngón tay ngón chân cũng bị biến dạng, các cơ teo; từ đó làm cho người bệnh rất khó khăn trong việc vận động, thậm chí ở giai đoạn muộn, bệnh nhân trở thành tàn phế.

Viêm đa khớp dạng thấp là bệnh rất khó chữa khỏi, vì đây là bệnh của hệ thống tự miễn tức là do cơ thể tự sinh ra những chất chống lại chính khớp và gây đau. Vì là bệnh tự miễn nên việc điều trị thường là kéo dài từ 1 - 2 tháng đến vài năm và có khi là điều trị suốt đời. 

Bệnh gout

Bệnh gout là tình trạng viêm khớp những biểu hiện như đau nhức, sưng, đỏ, và nóng. Nó gây khó cử động khớp tại một hay nhiều khớp.Nếu không điều trị, các cơn đau sẽ tái diễn thường xuyên và gây thương tổn khớp, gân, và các mô khác chung quanh khớp.Bệnh gout phổ biến nhất trong nam giới trên 40 tuổi.

Đây là một bệnh do rối loạn chuyển hóa, trong đó có tình trạng tăng acid uric máu và đây cũng là đặc điểm chính của bệnh. Bệnh thường gặp ở nam giới, có mối liên quan đến chế độ ăn uống của người bệnh như: ăn quá nhiều chất đạm, uống quá nhiều bia, rượu… Trong cơn gout cấp và điển hình, bệnh có một số đặc điểm như cơn đau thường khởi phát đột ngột vào nửa đêm với các dấu hiệu như sưng khớp ngón chân cái, đau dữ dội có cảm giác bỏng rát, đôi khi sốt cao, da trên chỗ khớp bị tổn thương, bị hồng hoặc đỏ tím.

Để phòng ngừa bệnh gout có thể thực hiện việc điều chỉnh chế độ ăn, vì bệnh có liên quan đến mức acid uric cao. Để tống các tinh thể acid uric ra khỏi cơ thể, mỗi ngày nên uống ít nhất 3 - 4 lít nước lọc.

Đau vai gáy, đau thắt lưng

Bệnh đau vai gáy là một dạng rối loạn thần kinh cơ gây ra bởi sự co cứng cục bộ, đột ngột do rối loạn chức năng thần kinh mà không do tổn thương xương, khớp, đốt sống cổ hay đĩa đệm.

Bệnh đau vai gáy thường xuất hiện vào buổi sáng, sau khi ngủ dậy, đây là bệnh có liên quan đến hệ thống cơ xương khớp và mạch máu vùng vai và gáy do rối loạn tuần hoàn gây thiếu máu ở vùng cột sống cổ, hoặc do sự kéo giãn dây thần kinh quá mức gây ra rối loạn chức năng của dây thần kinh chi phối nơi đây hoặc có thể là một sang chấn nhẹ nào đó cơ vùng vai gáy và gây ra co cứng và đau rút cục bộ.

Phần lớn các ca đau thắt lưng không có nguyên nhân bệnh lý mà chủ yếu bắt nguồn từ các tư thế sai trong sinh hoạt, lao động hoặc chơi thể thao, làm vùng cột sống thắt lưng cũng như những nhóm cơ chống đỡ làm làm việc quá sức sinh ra mệt mỏi.

Đau thắt lưng là biểu hiện chính của thoát vị đĩa đệm thắt lưng, thoái hóa cột sống thắt lưng do tuổi già, lao cột sống thắt lưng, viêm cột sống thắt lưng do vi trùng hoặc nguyên nhân khác, bệnh viêm dính cột sống, vẹo cột sống, ung thư di căn cột sống thắt lưng, gãy xương sống thắt lưng... Để phòng ngừa chứng đau thắt lưng có thể thực hiện các biện pháp tạm thời như hạn chế việc ngồi liên tục trong một thời gian dài, thường xuyên vận động, tập thể dục với các động tác uốn dẻo cột sống thắt lưng, thay đổi tư thế thường xuyên khi đứng trao đổi, thảo luận lâu, không nên ngồi ở tư thế lom khom, tránh ngồi ẹo sang một bên, tránh đứng cúi thắt lưng thẳng gối trong thời gian dài.

Thoái hóa khớp

Là tình trạng hư hỏng phần sụn, đệm giữa hai đầu xương, kèm theo phản ứng viêm ở đó và giảm sút lượng dịch nhầy giúp bôi trơn ổ khớp, gây đau và cứng khớp và hạn chế vận động. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp ở người trên 40 tuổi, nhất là sau 60 tuổi.

Một số yếu tố quan trọng liên quan đến thoái hóa khớp là tuổi tác, tình trạng béo phì, những chấn thương nhẹ và mạn tính ở khớp. Phạm vi thoái hóa khớp bao gồm cả khớp, sụn và cả những tổn thương thoái hóa tại các đĩa liên đốt. Bệnh được đặc trưng bởi sự thoái hóa của sụn và phì đại xương tại các diện khớp. Biểu hiện viêm thường rất nhẹ.
Chủ Nhật, 22 tháng 1, 2012
Nguy cơ tiểu đường qua 4 dấu hiệu

Nguy cơ tiểu đường qua 4 dấu hiệu

Nếu có các dấu hiệu dưới đây, bạn hãy đề nghị bác sĩ cho thực hiện test chuyên sâu, từ đó biết cơ thể mình có trục trặc hay không, và lúc nào cần thay đổi chế độ ăn và luyện tập để tránh xa bệnh tiểu đường thật sự.

Tỷ lệ người mắc tiền tiểu đường đang tăng nhanh, và hầu hết họ không biết mình có bệnh. Bị tiền tiểu đường nghĩa là lượng glucose trong máu bạn cao hơn bình thường, nhưng chưa đến mức bị xếp vào tiểu đường. Các nghiên cứu cho thấy hầu hết những người bị tiền tiểu đường sẽ phát triển thành bệnh tiểu đường tuýp 2 trong vòng 10 năm, trừ phi họ giảm cân và thay đổi chế độ ăn, tập thể dục.

Vì tiền tiểu đường phát triển dần dần qua nhiều năm, nên người ta thường cho rằng chúng không có triệu chứng rõ ràng. Tuy nhiên, bạn vẫn có thể nhận ra những dấu hiệu cảnh báo chắc chắn về sự gia tăng kháng insulin - mất khả năng chuyển hóa đường một cách hợp lý - yếu tố chủ chốt trong giai đoạn tiền tiểu đường, theo Beth Reardon, giám đốc dinh dưỡng cho trung tâm Duke Integrative Medicine tại Đại học Duke.

Để ý tới những dấu hiệu cảnh báo sẽ cho bạn thời gian để thực hiện các thay đổi trước khi quá muộn:

1. Cảm thấy mệt mỏi và uể oải sau khi ăn

Bạn buồn ngủ ngay sau khi bữa ăn? Đây là phản ứng bình thường, nhưng nếu chuyện này xảy ra thường xuyên, cơ thể bạn có thể đang gửi thông điệp rằng chế độ ăn này quá gần gũi với "anh bạn" tiểu đường.1. Cảm thấy mệt mỏi và uể oải sau khi ăn:

Giải pháp: Làm chậm quá trình chuyển hóa đường. Chọn các loại carbonhydrate dạng thô hơn, như ngũ cốc nguyên hạt, rau củ, hoa quả tươi (không phải là nước ép hoa quả), những thứ mà cơ thể phải tiêu hóa lâu hơn. Điều đó sẽ giúp lượng đường máu ổn định trong quá trình dài hơn.

Đi bộ nhẹ nhàng sau ăn - đi bộ 15 phút - thay vì ngồi trước màn hình. Các hoạt động này sẽ giúp cơ thể xử lý lượng glucose ăn vào một cách hiệu quả hơn.

2. Giảm ăn mà không thấy giảm cân

Hầu hết người bị tiền tiểu đường có cân nặng thừa. Chỉ riêng yếu tố này đã là nguy cơ lớn gây tiểu đường. Tuy nhiên, cần đặc biệt lo lắng khi bạn cắt giảm calo mà vẫn không thấy giảm cân. Sự giữ cân ương ngạnh này có thể là kết quả của những thông điệp nhầm lẫn rằng các tế bào cơ thể đang nhận năng lượng.

Các tế bào cơ thể đang đói dần vì năng lượng mà chúng cần (dưới dạng glucose) không được hấp thụ tại các điểm tiếp nhận insulin trên bề mặt tế bào. Để đối phó với tình trạng thiếu năng lượng hiển hiện, cơ thể sẽ giữ chặt kho dự trữ hiện có - là mỡ. Vì thế, số thức ăn ít ỏi được đưa vào sẽ được chuyển ngay vào kho năng lượng - để có nhiều mỡ hơn.

Để cải thiện tình trạng này, hãy thay đổi mục tiêu giảm cân. Đừng nghĩ rằng "tôi phải giảm 25 cân ngay, tôi không thể làm điều đó". Thay vì thế, hãy chọn mục tiêu nhỏ thôi. Chỉ cần giảm 5-7% cân nặng, bạn đã ngăn cản hoặc trì hoãn được tiểu đường đến 60%. Kết hợp thay đổi lối sống (nhất là chế độ ăn) và dùng các loại thuốc là bạn có thể đạt được mục tiêu này.

3. Tăng cân ở giữa cơ thể

Tăng cân ở vùng giữa (eo và bụng) được xem là nguy cơ nguy hiểm hơn so với khi tăng cân ở đùi hay mông. Loại mỡ bụng này có liên quan tới sự gia tăng huyết áp cao, tim mạch, đột quỵ và lượng cholesterol nguy hiểm. Với đàn ông, điểm nguy hiểm là khi vòng eo từ 100 cm trở lên, và phụ nữ, mức nguy hiểm là 89 cm trở lên.

Giải pháp: Chế độ ăn, giảm cân và tập thể dục. Không nhất thiết phải là các bài tập đứng lên ngồi xuống hay bài tập chỉ nhăm nhăm vào vùng bụng. Hãy cử động toàn thân, từ 30 đến 60 phút mỗi ngày (như đi nhanh chẳng hạn).

4. Huyết áp cao theo sau tăng cân

Huyết áp cao có liên hệ với nhiều loại bệnh khác nhau. Nhưng tiền tiểu đường có thể là nguyên nhân, khi huyết áp cao dường như đến sau sự tăng cân (đặc biệt là tăng cân giữa cơ thể), mệt mỏi và một số yếu tố tiêu cực khác (lượng cholesterol bất thường, triglycerides cao).

Các con số cần cảnh giác: huyết áp bằng hoặc lớn hơn 130/85; lượng cholesterol tốt HDL dưới 40 mg/Dl đối với nam và dưới 50 mg/Dl với nữ, và triglycerides là 150 mg/Dl.

Giải pháp: Giảm cân từ từ thông qua thay đổi chế độ ăn và tăng luyện tập.
Thứ Bảy, 21 tháng 1, 2012
Nguyên nhân và biến chứng của bệnh vôi hóa cột sống

Nguyên nhân và biến chứng của bệnh vôi hóa cột sống

Bệnh vôi hóa cột sống hay còn gọi là gai cột sống là bệnh mà phát triển do xương hoặc sụn bị thoái hóa. Bệnh thường gặp ở những người trên 40 tuổi khi cột sống bắt đầu có dấu hiệu thoái hóa. Tỷ lệ nam mắc bệnh cao hơn nữ giới xong phụ nữ ở thời kỹ mãn kinh cũng hay bị vôi hóa cột sống.

Vôi hóa cột sống và chứng đau lưng
Đa số người trên 40 tuổi thường có những chồi xương này mà không biết và chỉ bị đau lưng rồi tìm ra khi chụp hình X-quang cơ thể trong khi chẩn đoán một bệnh nào khác. Tuy nhiên, 42% những trường hợp gai này một lúc nào đó có thể đưa tới đau cổ, lưng, lan ra tứ chi, yếu bàn tay bàn chân. Chữ Gai cũng không chính xác vì chồi xương trơn tru, dài vài mi li mét và là phần nhô ra của xương.


Nguyên nhân gây vôi hóa cột sống

- Gai xương có thể là kết quả của việc xương tự tu bổ sau khi liên tục bị chấn thương như sức ép, va chạm, cọ xát. .
- Khi đĩa liên sống hư hao, xẹp xuống, dây chằng giữa các đốt sống sẽ chùng giãn, khớp chuyển động nhiều hơn
- Phản ứng tự nhiên của cơ thể với sự chùng giãn này là làm cho dây chằng dầy lên để có sức giữ vững cột sống.
- Lâu ngày, calci sẽ tụ lại trên dây chằng và tạo ra các gai hoặc chồi xương.
- Dây chằng ở trong ống cột sống cũng có thể dày lên, ống thu hẹp, ép vào dây thần kinh và gây ra các dấu hiệu bệnh.
- Gai là một diễn tiến của sự lão hóa. Đĩa sụn và xương bị thoái hóa, hao mòn, mặt xương khớp gồ ghề và gai mọc ra. Đó là bệnh viêm xương khớp, thường thấy ở người tuổi cao.

Tóm lại các yếu tố di truyền, kém dinh dưỡng, nếp sống không lành mạnh, dáng điệu đứng ngồi xấu, chấn thương liên tục (do thể thao, tai nạn xe cộ) là những rủi ro đưa tới sự thoái hóa xương khớp và tạo gai nhanh hơn. Bệnh cũng có thể xuất hiện ở những người làm nghề khuân vác nặng, người quá kí tăng áp lực lên xương khớp, người có dáng đi đứng không ngay ngắn khiến cột sống xiêu vẹo.

Dấu hiệu vôi hóa cột sống

Đa số bệnh vôi hóa cột sống khi gai cọ xát với xương khác hoặc các phần mềm ở xung quanh như dây chằng, rễ dây thần kinh thì bệnh nhân thấy đau
- Đau thường xuất hiện ở cổ, thắt lưng, đặc biệt là khi bệnh nhân đứng hoặc đi.
- Đau lan xuống vai với nhức đầu khi gai ở cột sống cổ, lan xuống lưng, chân khi gai ở cột sống lưng.
- Cơn đau tăng khi cử động, giảm khi nghỉ do đó sẽ đưa tới giới hạn cử động ở các phần này.
- Khi dây thần kinh bị chèn ép, bệnh nhân cảm thấy đau ở tay và chân, cơ bắp yếu. Nếu ống tủy bị quá thu hẹp, bệnh nhân sẽ có rối loạn đại tiểu tiện, mất cảm giác.

Ngoài gai cột sống, các dấu hiệu vừa kể cũng thấy trong bệnh tiểu đường, rối loạn tuần hoàn ở tứ chi, u, viêm hoặc nhiễm trùng cột sống. Một số dấu hiệu của gai cột sống cũng tương tự như ở các bệnh viêm thấp khớp, chấn thương lưng, đứt đĩa liên sống. Cần phân biệt giữa vôi cột sống với Thoái hóa cột sống, đau thần kinh tọa, thoát vị đĩa đệm.

Biến chứng của vôi hóa cột sống

Bình thường vôi hóa cột sống xuất hiện nhiều hơn ở cạnh hoặc phía trước cột sống cho nên gai không cọ sát với rễ dây thần kinh hoặc với tủy sống ở phía sau, do đó gai ít gây ra các biến chứng nguy hiểm.

Tuy nhiên, một số trường hợp hiếm có thể xảy ra là gai gẫy, mảnh gẫy chạy vào giữa khớp xương, gây khó khăn cho sự co ruỗi khớp hoặc khi gai đè vào rễ dây thân kinh và gây ra mất cảm giác ở tay chân.
Thứ Tư, 18 tháng 1, 2012
Người trẻ với bệnh đái tháo đường

Người trẻ với bệnh đái tháo đường

Bệnh đái tháo đường type 1 

Còn có tên gọi là: đái tháo đường phụ thuộc Insulin, bệnh đái tháo đường người trẻ.

Bệnh đái tháo đường type 1 được gây ra do tuyến tuỵ không sản xuất insulin. Insulin có chức năng đưa glucose từ máu vào các tế bào để cung cấp năng lượng. Không có insulin, glucose sẽ tăng cao trong máu. Theo thời gian, glucose trong máu tăng cao có thể dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng về tim, mắt, thận, thần kinh, và nướu và răng.

Bệnh đái tháo đường type 1 thường xảy ra ở trẻ em và thanh niên, nhưng có thể xuất hiện ở bất cứ lứa tuổi nào

Nguyên nhân

Nguyên nhân chính xác vẫn chưa được biết rỏ. Gen, vi rút, và tự kháng thể có thể đóng vai trò gây ra đái tháo đường type 1.

Triệu chứng

Có thể bao gồm:

- Khát nước

- Tiểu thường xuyên

- Cảm thấy rất đói hoặc mệt mỏi

- Giảm trọng lượng mặc dù ăn ngon miệng

- Vết thương lành chậm

- Khô da, ngứa da

- Mất cảm giác ở bàn chân hoặc cảm giác châm chích

- Giảm thị lực.

- Buồn nôn

- Ói mửa
Chẩn đoán và điều trị viêm cơ cốt hóa

Chẩn đoán và điều trị viêm cơ cốt hóa

Viêm cơ cốt hóa (VCCH – Myositis Ossificans) là sự hình thành dạng xương trong cơ, là một rối loạn hiếm gặp liên quan đến quá trình canxi hóa (calcification) bất thường ở mô mềm (cơ, dây chằng). Thường gặp ở cánh tay hoặc cơ tứ đầu đùi.


1. Đặt vấn đề

Viêm cơ cốt hóa (VCCH – Myositis Ossificans) là sự hình thành dạng xương trong cơ, là một rối loạn hiếm gặp liên quan đến quá trình canxi hóa (calcification) bất thường ở mô mềm (cơ, dây chằng). Thường gặp ở cánh tay hoặc cơ tứ đầu đùi.

Nguyên nhân của VCCH còn nhiều vấn đề chưa sáng tỏ, có thể bệnh xuất hiện sau chấn thương gây ra khối máu tụ ở phần mềm nhưng nhiều trường hợp bệnh nhân hoàn toàn không có tiền sử chấn thương…

Điều trị VCCH còn gặp khó khăn, chưa có phác đồ điều trị thống nhất cho bệnh lý này. Hiện nay, cần phải có nghiên cứu sâu hơn về chẩn đoán và điều trị hiệu quả VCCH.

2. Minh họa bệnh án

Bệnh nhân nữ 52 tuổi, nghề nghiệp: Bác sĩ nội khoa. Trước đây không có tiền sử bệnh tật đáng quan tâm của cá nhân và gia đình, không có tiền sử chấn thương. Tự nhiên phát hiện đau ở đùi trái, không sốt, không sưng các khớp… Khám lâm sàng phát hiện một khối chắc không rõ giới hạn, ấn đau ở 1/3 trên trước ngoài đùi trái, không đỏ da tại chỗ. Siêu âm thấy có một khối không đồng nhất (kích thước 3,5 x 2 cm) sát xương đùi trái, có vôi hóa trong khối. Hình ảnh chụp MRI thấy khối sáng tín hiệu trên xung T2W phần trên cơ rộng giữa đùi trái.

3. Bàn luận
3.1. Về nguyên nhân VCCH

- Do chấn thương: Thường xảy ra ở vận động viên sau một chấn thương ban đầu, chấn thương gây ra khối máu tụ ở phần mềm, sau đó phát triển dần thành VCCH, cốt hóa thường hình thành sau chấn thương khoảng 2 – 4 tuần.
- Không do chấn thương: Cơ chế VCCH không do chấn thương chưa rõ chỉ được phát hiện có hình xương bất thường trên Xquang, trông giống như có một khối hóa xương trong mô mềm.
- Ngoài ra còn có thể do đột biến nhiễm sắc thể gây ra loạn sản tế bào sợi (là bệnh cực kỳ hiếm và có yếu tố di truyền). Một số tác giả cho rằng nguyên nhân có thể do nhiễm khuẩn, bỏng, rối loạn thần kinh cơ, bệnh ưa chảy máu (thiếu yếu tố X), uốn ván, lạm dụng thuốc…

3.2. Diễn biến bệnh
- VCCH về cơ bản là một phản ứng tăng sinh trong mô thường xuất phát từ một chất thương mô mềm. Không nhất thiết là có dẫn đến hình thành cốt hóa tại đó. Trong tuần đầu tiên, tăng sinh các tế bào sợi và mạch máu; Những tế bào trong mô nguyên thủy cùng với hoạt động phân bào mạnh (có thể giống như bệnh ác tính khi sinh thiết).
- Quá trình tiến triển của tổn thương, sẽ hình thành dần sự phân vùng điển hình:

3.2.1. Vùng lõi: Bao gồm nguyên bào sợi tăng sinh mạnh cùng đám xuất huyết và hoại tử cơ.

3.2.2. Vùng trung gian: Đặc trưng bởi nguyên bào xương với dạng xương non và các đảo sụn do cốt hóa.

3.2.3. Vùng ngoại vi: Gồm xương trưởng thành, thường tách biệt với các mô xung quanh bởi các cân cơ.

Khoảng từ tuần thứ 3 tới tuần thứ tư, canxi hóa và xương hóa hình thành bên trong khối “u”. Khoảng tuần thứ 6 – 8, hình thành một tổ chức xương đầy đủ.

3.3. Về chẩn đoán bệnh

3.3.1. Lâm sàng

Tự nhiên xuất hiện đau, không có triệu chứng của bệnh lý khớp cũng như nhiễm khuẩn tại chỗ, ở bệnh nhân trên, tự nhiên xuất hiện đau ở 1/3 trên ngoài đùi trái, đau tăng lên trong 3 tuần đầu.

3.3.2. Cận lâm sàng

+ Chụp cắt lớp vi tính: Cho thấy hình ảnh đặc hiệu VCCH điển hình ở vùng cơ rộng và khối tổn thương chưa hình thành tủy xương hoặc vỏ xương bất thường.

+ Chụp cộng hưởng từ (MRI): Cho thấy hình ảnh khác nhau tùy thuộc vào giai đoạn tiến trển và dạng mô học của tổn thương. Giai đoạn đầu, hình ảnh T2W cho thấy khối “u” không đồng nhất với mật độ cao ở trung tâm. Giai đoạn muộn hơn, cốt hóa ở ngoại vị trở nên đặc hiệu hơn và trên hình ảnh T2W cho thấy một vùng đậm đặc có bờ viền mỏng bao quanh

+ Về mô học: Cần chẩn đoán phân biệt với u xương ác tính và giả u xương sợi ở các ngón, đó là:

VCCH thường cho thấy một kiểu phân vùng điển hình, với một lõi nguyên bào sợi và một vùng cốt hóa rộng ở ngoại vi trong khi phần lõi có xu hướng cho thấy các tế bào sợi sắp xếp một cách lỏng lẻo và không có dạng tế bào điển hình.

Ung thư xương: Thấy có sự tăng trưởng mất trật tự với một hình ảnh chia vùng ngược lại. Ở phụ nữ xương hoặc sụn chưa trưởng thành được thấy ở vùng ngoại vi và giải xương trưởng thành thấy ở vùng trung tâm và cũng thấy các tế bào tăng sinh với hình ảnh tể bào ác tính.

3.4. Về điều trị

Hiện nay tài liệu đề cập toàn diện về điều trị VCCH còn ít và chưa thống nhất.

Theo các tài liệu kinh điển, điều trị VCCH tập trung giải quyết: làm giảm xuất huyết, nghỉ ngơi, bất động, chườm đá, đặt cao chân, dùng thuốc giảm đau, chống viêm. Không điều trị bằng nhiệt, siêu âm kéo dài, xoa bóp, làm căng cơ và vận động mạnh để tránh gây thêm chảy máu, như vậy sẽ làm tăng nguy cơ phát triển cốt hóa. Điều trị trước hết và cơ bản là bảo tồn, cho đến khi sự canxi hóa bớt dần, các triệu chứng thuyên giảm, khi đó có thể tiến hành phẫu thuật loại bỏ, tuy nhiên thành công của phẫu thuật còn hạn chế.

Nếu cắt bỏ sớm khi khối cốt hóa chưa trưởng thành (mature) thì nhiều khả năng sẽ phát triển trở lại (thời gian “trưởng thành” khoảng 3 – 6 tháng). Vì vậy hầu hết các phẫu thuật viên phải đợi từ 6 – 12 tháng mới có thể xem xét loại bỏ.

* Phương pháp điều trị bằng điện di ion axit axetic:

- Điện di dung dịch axit acetic 2% với dòng điện một chiều 4 mA trong 20 phút.

- Xung siêu âm cường độ 1,5W/cm2 trong 08 phút.

- Vận động nhẹ nhàng trong 05 phút trong giới hạn không gây đau (mild passive range of motion).

Thời gian điều trị: 3 lần/tuần x 3 tuần liên tiếp.

* Phương pháp điện di thuốc (electrophoresis): là phương pháp dùng dòng điện một chiều để di chuyển một số ion thuốc điều trị vào cơ thể hoặc lấy các ion thuốc có hại ra khỏi cơ thể.

4. Kết luận

VCCH không do chấn thương là một dạng bệnh lý hiếm gặp, chưa rõ nguyên nhân gây bệnh.

Chẩn đoán chủ yếu dựa vào chụp CLVT, MRI và mô bệnh học. Việc điều trị chưa có một phác đồ thống nhất, mỗi phương pháp đều có thể tác dụng nhất đinh, thời gian theo dõi 6 -12 tháng.

Bệnh cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn.
Chủ Nhật, 15 tháng 1, 2012
Đái tháo đường và nguy cơ

Đái tháo đường và nguy cơ

Hiện nay vẫn chưa biết rõ tại sao có người bị đái tháo đường trong khi người khác lại không bị. Tuy nhiên vẫn có một số yếu tố làm tăng nguy cơ bị đái tháo đường, bao gồm:




Thừa cân

Thừa cân là yếu tố nguy cơ nguyên phát đối với đái tháo đường type 2. Nhiều mô mỡ sẽ làm cho các tế bào trở nên đề kháng với insulin.

Lối sống thụ động

Ít vận động là yếu tố nguy cơ lớn của đái tháo đường type 2. Hoạt động thể lực sẽ giúp kiểm soát trọng lượng cơ thể, tăng sử dụng glucose làm năng lượng và giúp tế bào nhạy cảm hơn với insulin ( làm insulin hoạt động tốt hơn ) . Việc phát triển phương tiện đi lại hiện đại làm ít vận động hơn.

Tiền căn gia đình

Nếu có người thân trong gia đình ( cha, mẹ, anh chị em ruột) bị đái tháo đường type 2 thì sẽ có nguy cơ bị đái tháo đường type 2 cao hơn.

Sắc tộc/ chủng tộc

Mặc dù không biết tại sao nhưng những người thuộc những sắc tộc sau có nguy cơ bị đái tháo đường type 2 cao hơn người khác: La tinh, người Mỹ gốc Phi, Tây Ban Nha, thổ dân da đỏ và người Mỹ gốc Á, cư dân quần đảo Thái Bình Dương…

Tuổi

Nguy cơ đái tháo đường type 2 tăng khi lớn tuổi, đặc biệt sau tuổi 45. Có thể do khi lớn tuổi bệnh nhân có khuynh hướng ít hoạt động thể lực hơn, giảm khối lượng cơ, và tăng cân.

Tuy nhiên, đái tháo đường type 2 càng ngày xảy ra càng nhiều trên bệnh nhân trẻ tuổi.

Tiền đái tháo đường

Tiền đái tháo đường là tình trạng đường huyết tăng cao hơn bình thường nhưng chưa đủ cao để chẩn đoán đái tháo đường type 2. Nếu không được điều trị, tiền-đái tháo đường có khuynh hướng tiến triển thành đái tháo đường type 2.

Đái tháo đường thai kỳ

Nếu sản phụ bị đái tháo đường thai kỳ ,sẽ tăng nguy cơ bị đái tháo đường type 2 sau này.

Nếu sản phụ sanh con > 4 kilograms cũng tăng nguy cơ bị đái tháo đường type 2 sau này.
Chữa vôi hóa cột sống như thế nào?

Chữa vôi hóa cột sống như thế nào?

Bệnh vôi hóa cột sống (hay thoái hóa cột sống, gai cột sống) là các từ mà các bác sĩ hay dùng để chỉ những tình trạng thoái hóa của các dây chằng liên kết các thân đốt sống, các đĩa đệm nằm giữa các thân đốt sống.

Phương pháp chữa vôi hóa cột sống

Theo thời gian cũng như tùy thuộc vào mức độ làm việc lúc trẻ mà các đĩa đệm sẽ bị thoái hóa mất nước, các dây chằng bao bọc đĩa đệm bị rách làm đĩa đệm chui ra sau vào ống sống chứa tủy sống mà người ta gọi là thoát vị đĩa đệm.

Tình trạng này càng nặng thêm khi các dây chằng dọc theo ống sống bị thoái hóa lắng tụ can xi dày lên càng làm hẹp ống sống gây chèn ép tủy sống, chèn ép các rễ thần kinh gây đau và yếu liệt chi.


Khi đó các bác sĩ sẽ dùng phương pháp phẫu thuật cắt bảng sống hay nói nôm na là lấy đi các thành phần chèn ép như đĩa đệm lồi ra, các dây chằng bị vôi hóa dày lên để giải áp cho tủy sống tránh tình trạng bị chèn ép.

Như vậy nếu một phẫu thuật thành công nghĩa là bệnh nhân không bị liệt do biến chứng cuộc mổ thì việc có con cái là chuyện bình thường không ảnh hưởng gì cả.

Việc bao lâu xuất viện tùy thuộc vào bác sĩ điều trị đánh giá cuộc mổ như thế nào. Trung bình 7-10 ngày là có thể xuất viện, mổ nội soi hay với đường mổ nhỏ có thể xuất viện sớm hơn.

Trong tháng đầu tiên bệnh nhân thường được cho mang nẹp lưng khi đi đứng để đỡ 1 phần cho cột sống cho đến khi mô lành hẳn. Sau khi lành mô ( vết thương lành), là bắt đầu giai đoạn tập vật lý trị liệu. Giai đoạn này cần có người kỹ thuật viên vật lý trị liệu hướng dẫn tập.

Về phần chăm sóc bệnh nhân sau mổ thoát vị đĩa đệm thì tùy giai đoạn. Giai đoạn sớm chủ yếu là chăm sóc vết thương, tập tại giường các động tác tay chân, tập đỡ ngồi dậy, săn sóc và vệ sinh cá nhân, chườm lạnh nơi mổ để chống viêm và chống phù nề.

Sau giai đoạn lành vết thương chủ yếu là giúp người bệnh tập các động tác vật lý trị liệu do các nhân viên hướng dẫn. Tùy theo cuộc mổ mà bệnh nhân được cho đi lại, ngồi dậy nhưng thông thường nhất là hạn chế các động tác này.

Việc phẫu thuật chỉ lấy đi phần đĩa đệm chèn ép mà không thể điều chỉnh các tư thế xấu gây đau lưng, do vậy bệnh nhân cần phải tránh các động tác gây đau lưng như cúi khom lưng, tư thế nửa, nằm nửa ngồi gây mất độ cong sinh lý cột sống, ngồi xổm hay ngồi làm việc quá lâu với lưng cong.v.v và một trong số những nguyên nhân tại sao sau khi phẫu thuật bệnh nhân vẫn còn đau chính là không bỏ được các tư thế xấu của lưng.
Thứ Năm, 12 tháng 1, 2012
Đoán bệnh đái tháo đường bằng cách đo vòng eo

Đoán bệnh đái tháo đường bằng cách đo vòng eo

Một nghiên cứu mới cho thấy chỉ cần đo vòng eo cũng có thể giúp chúng ta dự đoán nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường, đặc biệt ở phụ nữ.


Trước đây, người ta thường sử dụng chỉ số khối cơ thể (BMI) được tính toán dựa trên cân nặng và chiều cao cơ thể. Tuy nhiên chỉ số này không chính xác trong những trường hợp có vòng bụng lớn do lượng mỡ thừa tích tụ nhưng chỉ số BMI không đủ xác định béo phì.

Các nhà nghiên cứu tại Viện Khoa học chuyển hóa thuộc Bệnh viện Addenbrooke (Cambridge, Anh) đã tiến hành phân tích lại dữ liệu sức khỏe của gần 29.000 người sống tại tám nước thuộc châu Âu. Kết quả cho thấy với đàn ông có vòng eo lớn trên 102cm tăng 22 lần nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường type 2, khi so với những người có chỉ số BMI bình thường và vòng eo nhỏ (dưới 94cm).

Đặc biệt, ở những phụ nữ béo phì có vòng eo trên 89cm tăng gấp 32 lần nguy cơ mắc bệnh này khi so với những người nhẹ cân và có vòng eo nhỏ dưới 79cm.